1. Trang chủ >
  2. Văn Hóa - Nghệ Thuật >
  3. Điêu khắc - Hội họa >

BÀI 2: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.89 MB, 116 trang )


- Nhà Tần (221 – 206 TCN): Mở đầu cho thời kỳ phong kiến.

- Nhà Hán (206 TCN – 220 SCN) là thời kỳ phát triển thịnh trị của chế độ phong kiến

Trung Quốc. Là một đế quốc hùng mạnh nhất, rộng lớn trong lịch sử Trung Quốc.

- Thời Tam Quốc (220 – 280) gồm 3 nước: Nguỵ – Thục – Ngô

- Nhà Tấn (265 – 420)

- Thời Nam Bắc Triều (420 – 589)

- Nhà Tuỳ (581 – 618). Tiếp đó là một loạt các triều đại lần lượt thay thế nhau.

Sang nhà Tuỳ đến nhà Đường (618 – 907). Thời Ngũ đại ở miền Bắc và Thập quốc ở

miền Nam (907 – 960). Tống (960 – 1279). Nguyên (1271 – 1368). Minh (1368 –

1644) và nhà Thanh do người Mãn Châu thành lập từ 1644 – 1911 kết thúc. Đồng thời

đây cũng là triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc. Suốt từ khi nhà Hạ ra đời

đến 1911 với cuộc cách mạng tư sản Tân Hợi lịch sử Trung Quốc trải qua hai thời kỳ:

Chiếm hữu nô lệ và phong kiến.

2. Đặc điểm nghệ thuật Trung Quốc

Trong thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc ở Trung Quốc xuất hiện nhiều nhà tư

tưởng lớn, trong đó có Khổng Tử, người sáng lập ra Nho gia. Sau ông có nhiều nhà tư

tưởng khác như Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư… đã hoàn chỉnh học thuyết này.

Khổng Tử (551 – 479 TCN) tên thật là Khổng Khâu, tự là Trọng Ni, người nước

Lỗ. Ông sống thời Xuân Thu. Tư tưởng của ông gồm triết học, đạo đức, đường lối trị

nước và giáo dục. Triết học có thể chi phối mọi mặt của con người. Đạo đức theo

Khổng Tử gắn với các mặt Nhân – Lễ – Nghĩa – Tín – Dũng. Trong đó quan trọng

nhất là Nhân. Hạt nhân đạo lý của Khổng Tử là khái niệm người quân tử. Ông đề cao

lối sống tôn trọng trật tự xã hội đồng thời là phù hợp với trật tự thiên nhiên. Khổng

Giáo đề cao lý trí. Nó cung cấp cho nghệ thuật, thơ ca một diện rộng đề tài về đạo đức

xã hội mang nhiều ý nghĩa giáo huấn. Nó hướng con người vào những hoạ sĩ để khôi phục

trật tự xã hội và xây dựng quốc gia vững mạnh. Người quân tử phải là tu thân, tề gia, trị

quốc, bình thiên hạ. Mỹ thuật Trung Quốc bị ảnh hưởng của tử tưởng Nho gia thể hiện ở

hai đặc điểm, đó là tính mực thước và tính đăng đối. Hình tượng các hiền nhân quân tử

các hiền nữ… thường xuất hiện trong mỹ thuật, nhất là ở các lăng mộ đời Hán.

Người đề xướng học thuyết đạo gia là Lão Tử, sống vào thời kỳ Xuân Thu và

Trang Tử là người kế tục. Học thuyết của Lão Tử lại nặng nề việc giải thích vũ trụ,

vạn vật. Ông cho rằng nguồn gốc vạn vật, vũ trụ là một vật sinh ra trước trời đất gọi là

Đạo. Từ Đạo mà sinh ra tất cả. Lão Tử còn đưa ra các mặt đối lập trong thế giới khách

quan như cứng – mềm, tĩnh - động, yếu – mạnh… Đạo vừa là nhịp điệu, vừa là sự

chuyển động của vũ trụ, vừa là cuộc sống vừa là hư không. Lão Tử lấy ví dụ về sự

thống nhất của: “có – không”. Ông ví như cái nhà: hình thể là có, nhưng trong có là

53



khoảng trống không và như vậy mới tạo thành nhà… Tinh thần này cũng ảnh hưởng đến

một thể loại tranh Trung Quốc. ở loại tranh này khoảng trống nhiều hơn khoảng vẽ màu.

Điều đó tạo ra sự hài hoà, thống nhất gữa có và không. Theo tinh thần của đạo gia, sự cân

bằng giữa các mặt đối lập như tĩnh - động (dáng), cứng – mềm (khối), nóng – lạnh (màu

sắc), chắc chắn – chông chênh (thế)… đã tạo ra các kiệt tác mỹ thuật. Phải chăng những

tác phẩm như thế đã mang theo tư tưởng triết học biện chứng của Lão Tử.

Phật giáo có nguồn gốc từ ấn Độ, vào Trung Quốc từ đầu công nguyên. Đến đời

Đường phát triển thành quốc giáo. Khi vào Trung Quốc, Phật giáo đã được Trung

Quốc hoá, vì vậy mang theo tinh thần và tư tưởng của dân tộc Trung Hoa. Nó gặp tư

tưởng của Đạo giáo và cùng tác động mạnh mẽ đến thơ và hoạ. Do Đạo phật phát

triển, nhiều kiến trúc chùa được xây dựng. Cùng với kiến trúc Phật giáo là nghệ thuật

bích hoạ và điêu khắc Phật giáo cũng phát triển. Bích họa Đôn Hoàng là mảng tranh

rất nổi tiếng của mỹ thuật Trung Quốc, mang tinh thần Phật giáo và phục vụ cho Phật

giáo.

Từ thời cổ đại, ở Trung Quốc đã xuất hiện nhiều trường phái tư tưởng. Đặc biệt

thời Xuân Thu – Chiến Quốc đã diễn ra sự tranh giành nhau ảnh hưởng giữa các

trường phái đó. Tuy vậy, đối với mỹ thuật ba trào lưu tư tưởng triết học và tôn giáo là

Nho gia, Đạo gia, Phật giáo đã trực tiếp ảnh hưởng và góp phần tạo nên những đặc

điểm của mỹ thuật Trung Quốc.

3. Thành tựu mỹ thuật Trung quốc

3.1 Nghệ thuật hội hoạ

Trong mỹ thuật Trung Quốc, hội hoạ là loại hình phát triển nhất, là loại hình

tiêu biểu cho tài năng sáng tạo nghệ thuật của người Trung Quốc. Hội hoạ còn là sự

tổng hợp cao nhất của những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh quan của người Trung

Hoa. Người Trung Quốc coi hội hoạ là hình thức chân chính duy nhất và do những

người có học, có văn bằng sáng tạo ra. Đó là các văn nhân, sĩ đại phu. Hội hoạ cổ

Trung Hoa được coi là có nhiều thành tựu rực rỡ và được xếp vào một trong những

nền hội hoạ lớn trên thế giới. Hội hoạ Trung Quốc có truyền thống từ lâu đời. Bức

tranh cổ nhất ở Trung Quốc là bức tranh lụa thời Chiến Quốc được tìm thấy tháng

2/1949 trong một ngôi mộ ở Hồ Nam. Tranh rộng 20cm, cao 28cm diễn tả hình tượng

người phụ nữ với trang phục thời Chiến quốc. Trên đầu có hình tượng con phượng và

con rồng đang kịch chiến. Hội hoạ Trung Quốc gồm nhiều thể loại. Đó là: Tranh phật

đạo, tranh sơn thủy (vẽ thiên nhiên, trời đất, sông núi), tranh phong tục, tranh hoa điểu, tranh

thảo trùng, tranh nhân vật, tranh lầu các, tranh yên mã.

Tranh sơn thuỷ có hai loại: thuỷ mặc sơn thuỷ (vẽ thiên nhiên sông núi, chỉ bằng

mực nho và nước với độ đậm nhạt của mực mà diễn tả được vạn vật) và thanh lục sơn

54



thuỷ. Trong tranh sơn thuỷ có nhiều khoảng trống, Tiêu biểu là hoạ sĩ Vương Duy hoạ

gia đời Đường. Hoạ sĩ Trung Quốc đã rất giỏi khi xử lý các khoảng trống khiến các vật

thể trên tranh như từ đáy sâu bí ẩn của hư không hiện lên. Vì vậy tạo cảm giác mênh

mông bao la của thiên nhiên. Tranh phong cảnh của Trung Quốc ra đời sớm từ thế kỷ

VII và đến thế kỷ VIII thì trở thành trào lưu chủ yếu lấn át cả loại tranh nhân vật. Sự

vật trong tranh sơn thuỷ không được diễn tả theo xa gần. Họ dùng thiên nhiên làm tỷ lệ

(Ví dụ: người nhỏ hơn nhà, nhà nhỏ hơn núi…) và sử dụng viễn cận theo lối điểm nhìn

di động. Thường được gọi là viễn cận phi điểu hay tẩu mã. Đến đời Tống tranh thuỷ

mặc phát triển với nhiều tên tuổi hoạ sĩ nổi tiếng và có ảnh hưởng sâu rộng đến các đời

sau như Nguyên – Minh – Thanh. Nhiều bút pháp vẽ tranh sơn thuỷ cùng với nhiều

phái hoạ ra đời như “Ngô phái”, “Hải phái”,… Tranh thanh lục sơn thuỷ là loại tranh

sơn thuỷ vẽ mực đen, điểm màu xanh lục do hoạ gia Triển Tử Kiên khởi xướng đã để

lại nhiều tác phẩm ảnh hưởng đến đời sau…

Trong cách vẽ của các hoạ sĩ Trung Quốc có hai kỹ thuật, hay còn gọi là hai lối

dụng bút cơ bản là “công bút” và “ý bút”. Công bút là lối vẽ công phu, tỉ mỉ, vẽ có

đường viền chu vi hoàn chỉnh, tỉa tót tinh vi.. ý bút là cách vẽ gợi tả khái quát, ước lệ,

nét bút thoáng, hoạt. Cũng có lúc các hoạ gia kết hợp cả hai cách dụng bút để vẽ tranh.

- Tranh cuốn trục

Là loại tranh được vẽ trên giấy hoặc lụa có gắn trục ở hai đầu, có thể treo và

cuốn. Có Khải Chi là ông tổ của hội hoạ Trung Quốc và ông là người mở đầu cho loại

tranh này. Ông vẽ rất nhiều nhân vật, chân dung và phật đạo. Khi vẽ ông chú ý nhất

đến đặc điểm nhân vật và kỹ thuật “điểm nhãn”. Ngoài ra còn có Lục Thám Vi và

Trương Tăng Dao, ba ông được coi là tam đại gia của thời Lục triều. Tranh của các

ông mỗi người một vẻ song kết hợp cả 3 tài năng sẽ được một cách tạo hình hoàn

chỉnh cho hội hoạ.

- Bích hoạ Đôn hoàng

Ở hang Mạc Cao Đôn Hoàng có chiều dài toàn bộ khoảng 1600m, trong đó có

hơn 50.000 bản văn thư. Đặc biệt có bích hoạ của 10 triều đại Tiền Tần, Bắc Nguỵ,

Bắc Chu, Tuỳ, Đường, Ngũ Đại, Tống, Liêu, Tây Hạ, Nguyên chiếm 45.000m 2. Nếu

nối liền tất cả các bích hoạ trong hang lại, có thể tạo thành một hành lang dài 25km.

Trong số đó có bức bích hoạ lớn nhất cao hơn 40m, rộng hơn 30m, bức nhỏ nhất cao

chưa đến 1 thước. Bích hoạ Đôn hoàng chủ yếu có nội dung phật giáo, có một phần

ảnh hưởng của bích hoạ ấn Độ. Tuy vậy là bộ tranh của 10 triều đại nên phong cách rất

phong phú. Nội dung cũng đa dạng về lịch sử, phong tục, tình cảm, thần thoại…

Ngoài bích hoạ Đôn hoàng chuyên vẽ về đề tài phật giáo thì bích hoạ Cung

Vĩnh Lạc lại chuyên vẽ về cảnh hưng thịnh của Đạo giáo thần tiên. Cung điện Vĩnh lạc

55



có 873m2 bích hoạ,phong cách kỹ xảo tinh tế, kế thừa và phát triển tranh nhân vật đời

Tống, Đường.

3.2. Nghệ thuật Kiến trúc

- Kiến trúc cung điện

Trong danh sách các di sản văn hoá thế giới, Trung Quốc có nhiều công trình

nghệ thuật được ghi nhận bên cạnh các công trình nổi tiếng của nhiều nước khác trên thế

giới như: Lăng Hoàng đế – Khu di tích Khổng Tử – Vạn Lý Trường Thành – Lăng mộ

nhà Tần – Trường An, Tháp Lục Hoà, Tam Lăng, Cố cung, Thiên đàn, Di Hoà viên…

Nghệ thuật kiến trúc cổ đại Trung Quốc phát triển với sáu thể loại kiến trúc gồm

kiến trúc cung điện, tôn giáo, lăng mộ, làm viên, đàn miếu và nhà ở.

Ngay từ thời nhà Thương, nhà Chu đã có những kiến trúc cung điện với quy mô

nhỏ. Từ thời nhà Trần trở đi, kiến trúc cung điện đã phát triển và được xây dựng thành

một quần thể kiến trúc với nhiều chức năng riêng biệt. Có thể kể đến một số kinh đô

nổi tiếng như Lạc dương, Khai phong, Trường An, Tử cấm thành. Từ thế kỷ XIII, nhà

Nguyên đã cho xây dựng Hoàng Thành gồm các cung điện có quy mô lớn ở trung tâm

Bắc Kinh. Đến thời nhà Minh Hoàng Thành được xây dựng với vật liệu chính là gỗ.

Ngoài ra còn có đá, ngói lưu ly, gạch… Năm 1417, triều đình huy động số lượng nhân

công, thợ rất lớn để xây dựng Tử cấm thành với diện tích rộng 720.000 m 2: 1.000 ngôi

nhà, 9.000 gian, rộng 160.000 m. Công trình này được xây dựng trong 3 năm gồm các

công trình chính như: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà, cung Càn Thanh, điện Giao Thái,

Ngự hoa viên, điện Dương Tâm… Đến thời nhà Thanh, trong thành Bắc Kinh còn

được xây dựng thêm nhiều cung điện, lâu đài tráng lệ. Từ khi nước cộng hoà nhân dân

Trung Hoa ra đời vẫn lấy Bắc Kinh làm thủ đô. Thủ đô Bắc Kinh với Cố cung, Di hoà

viên, Vạn lý trường thành, Thập tam lăng, Thiên đàn… đã trở thành những di sản văn

hoá thế giới thu hút đông đảo du khách quốc tế khi đến thăm Trung Quốc.

- Kiến trúc Phật giáo

Vật liệu chủ yếu của kiến trúc cổ Trung Quốc là gỗ. Kiến trúc gỗ có nhiều ưu

điểm nhưng không tránh khỏi một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất là tồn tại không được

lâu như kiến trúc gạch hay đá. Gỗ dễ bị mối mọt, cháy… Vì vậy kiến trúc cổ Trung

Quốc hầu hết đã bị phá huỷ. Đến nay còn rất ít các di tích cổ. Có thể kể một vài công

trình chùa cổ như: Nam thuyền tự (xây dựng năm 782), Phật Quang Tự (857)… Trong

kiến trúc Phật giáo Trung Quốc có một thể loại kiến trúc đặc biệt. Đó là thể loại chùa

được tạo ra từ những quả núi, thường được gọi là chùa hang như chùa hang Mạc Cao,

hay còn gọi là Thiên Phật động (động ngàn Phật) ở tỉnh Cam Túc. Thiên Phật động

được bắt đầu xây dựng từ thế kỷ IV đến tận thế kỷ XIV. Trong X thế kỷ đó các nhà tu

hành đã đào được một nghìn hang nhỏ trong lòng núi và trang trí cho Thiên Phật động

56



bằng tranh vẽ trên vách hang và tượng cũng được đục ra từ núi. Đến nay Trung Quốc

còn bảo tồn được 496 hang. Năm 1987 động nghìn Phật được ghi vào danh sách các di

sản của văn hoá thế giới. Kiến trúc Phật giáo của Trung Quốc thường được xây dựng

theo đồ án đơn giản. Phần quan trọng nhất trong chùa là Phật điện. Ngôi chùa sớm

nhất của kiến trúc Phật giáo Trung Quốc là chùa Bạch mã. Tương truyền đây là nơi

đầu tiên các cao tăng ấn Độ đến truyền đạo Phật. Điện Phật nổi tiếng còn lại đến ngày

nay là điện phật chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, thuộc tỉnh Sơn Tây, một trong hai

công trình lớn bằng gỗ được xây dựng sớm nhất.

Một phần khác không kém phần quan trọng trong kiến trúc chùa là tháp. Tháp

được truyền từ ấn Độ vào Trung Quốc. Nhưng vào Trung Quốc, nó kết hợp với kiến

trúc Trung Quốc và tạo ra phong cách riêng cho tháp Trung Quốc.

Trong nghệ thuật kiến trúc Trung Quốc còn các thể loại kiến trúc khác như kiến

trúc đàn miếu thờ núi sông, trời đất, đế vương, tổ tiên và cầu mùa. Đền miếu là nơi thờ

các danh thần, danh tướng, văn nhân có công với dân, với nước. Gia miếu, từ đường

cúng tế tổ tiên. Về thể loại đàn miếu có thể kể đến công trình kiến trúc mổi tiếng là

“Thiên đàn” xây dựng năm Minh Vĩnh Lạc thứ 18 (1420). Rộng 4184 mẫu, gấp 4 lần

diện tích Tử Cấm Thành. Kiến trúc Thiên Đàn gồm 2 phần: phần kiến trúc dành cho

việc tế trời, nằm ở phía Đông, phía Tây là Trai cung, nơi Hoàng đế đến tắm gội và ăn

chay trước khi làm lễ tế trời vào ngày Đông chí hàng năm. Đàn là một đài cao 3 tầng,

xây bằng đá, một nhóm kiến trúc khác ở Thiên đàn là điện Kỳ niên, nơi vua đến làm lễ

cầu được mùa hàng năm vào giữa mùa hạ.

- Kiến trúc lăng tẩm của các Hoàng đế Trung Hoa

Người Trung Quốc cũng như mọi tộc người Châu á khác đều rất coi trọng việc

xây dựng lăng mộ cho người chết. Các Hoàng đế lo việc này từ khi mới lên ngôi.

Những lăng tẩm còn lại của các hoàng đế cho ta biết lăng một Trung Hoa cổ thường

gồm 2 phần: Phần nổi trên mặt đất và phần chìm trong lòng đất (ngọa cung hoặc địa

cung). Thập tam lăng là khu lăng mộ của nhà Minh đã được ghi vào danh sách di sản

thế giới. Chu vi của Thập Tam lăng là 40km, ba mặt Bắc - Đông – Tây là núi. Vào

lăng phải qua cổng gồm 5 cửa, cao 29m, có 6 cột chạm khắc rồng mây tinh xảo. Hai

bên đường thần đạo có 12 cặp tượng thú bằng đá và 12 tượng người đá gồm 4 văn, 4

võ và 4 công thần. ở khu Thập tam lăng còn có Định lăng hay còn gọi là cung điện

ngầm rất nổi tiếng. Cung điện ngầm được xây dựng ở độ sâu cách mặt đất 27m, diện

tích 1195m2. Tất cả những điều trên cho ta thấy tài năng của người Trung Hoa cổ về

mặt kiến trúc. Thập tam lăng của nhà Minh chỉ là một ví dụ. Ngoài ra còn rất nhiều

công trình lăng tẩm khác.

Ngoài các công trình kiến trúc gỗ, trong kiến trúc Trung Hoa cổ còn thể loại

kiến trúc gạch, đá. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của thể loại này là Vạn lý

57



trường thành. Trường thành được xây dựng từ 3, 4 trăm năm TCN. Năm 221 TCN Tần

Thuỷ Hoàng cho xây dựng nối liền các đoạn thành ở phía Bắc ba nước Tần – Yên –

Triệu, đồng thời cho xây dài thêm hoàn thành dãy trường thành dài trên 5.000km. Đây

là công trình lớn nhất thế giới do sức người xây dựng nên. Chiều cao bình quân của

trường thành là 9m, nóc rộng 5,5m, đủ cho 10 người dàn hàng hoặc 5 kỵ binh một

hàng qua lại dễ dàng. Trải qua mấy nghìn năm Trường thành vẫn đứng sừng vững và

thu hút mọi người ở Trung Quốc cũng như trên thế giới đến đây chiêm ngưỡng.

3.3. Điêu khắc

Nghệ thuật điêu khắc của Trung Quốc xuất hiện từ rất sớm. Sớm nhất là thể loại

điêu khắc trên ngọc hay còn gọi là ngọc điêu có cách đây 6.000 năm. Điêu khắc đá

được phát hiện sớm nhất ở An Dương Hầu gia trang (Hà Nam), cuối đời Thương như

bức Thạch điêu đầu hổ mình người cao hơn 37cm. Ngay từ thời Ân Chu đã tìm thấy

nhiều đồ đồng, đồ chạm ngọc, đồ gốm trắng hình dáng đẹp, trang trí tỉ mỉ. Các hoa văn

rồng, hoa lá, chim thú được cách điệu cao. Từ thời Hán, đạo Phật được truyền vào

Trung Quốc. Cùng với việc xây dựng các công trình kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc

cũng phát triển với nhiều thể loại: tượng phật, tượng thờ, tượng sư tử và các bức phù

điêu rất đẹp thể hiện đề tài lịch sử như Chu Công giúp Thành Vương… Nhà điêu khắc

nổi tiếng thời Đường là Dương Huệ Chi, ông là người mở đầu cho điêu khắc tượng

Phật nghìn mắt, nghìn tay và 500 tương la hán. Trong số các tượng Phật có pho rất to

lớn như tượng Phật Đại lư xá ở Long môn cao 17m thể hiện Phật ngồi tĩnh toạ bằng

chất liệu đá, tỷ lệ đẹp và tình cảm tự nhiên. Tuy vậy đấy chưa phải là bức tượng lớn

nhất. ở Nhạc Sơn – Tứ Xuyên có pho tượng Phật đứng cao 36m, ở Đông Hoàng (Cam

Túc), có tượng Phật bằng đá mềm cao 33 m… Bức tượng phât được coi là bức tượng

khổng lồ, lớn nhất thế giới là pho tượng phật Di Lặc ngồi cao 71m tại vùng núi Lạc

Sơn (tỉnh Tứ Xuyên), được tạc vào đời Đường thế kỷ thứ VIII. Tượng Phật ngồi lưng

tựa vào vách núi phía Tây lăng Văn Sơn. Do đó tượng phật được gọi là Lăng Vân Đại

phật hay Lạc Sơn Đại Phật. Đầu tượng cao 14m, rộng 10m, chân dung siêu phàm, lý

tưởng nét mặt phương phi, kỳ vĩ. Mỗi mắt dài 3,3m, cân đối với độ cao từ bàn chân lên

đầu gối (28m).

Cùng với tượng, phù điêu cũng biểu hiện tài năng của người Trung Hoa cổ. Bức

phù điêu “Chiêu lăng lục tuấn” (Lăng Đường Thái Tông) diễn tả 6 con ngựa mà khi

còn sống Đường Lý Thế Dân thường cưỡi đi chinh chiến. Sáu con tuấn mã được diễn

tả trong 6 tư thế đứng, đi, chạy, rong ruổi… rất sinh động. Nhà nghiên cứu mỹ thuật

phi Hoanh đã ví “Chiêu lăng lục tuấn” với ngựa ở đền Pác tê nông (Hy Lạp).

Năm 1974 ở gần Lâm Đồng (Trung Quốc) những người nông dân đã vô tình

phát hiện một số tượng đất nung người và ngựa. Sau đó tiến hành khai quật, Trung

Quốc đã tìm được hàng ngàn pho tượng to bằng người thật. Có tất cả 8.000 pho tượng

58



đất nung, cao từ 1,6m đến 1,7m trong trang phục của nhiều binh chủng như bộ binh,

xạ thủ bắn cung, nỏ đá, kỵ binh, chiến xa, chiến mã. Họ được chôn bên cạnh Tần Thuỷ

Hoàng. Những pho tượng này đều được vẽ màu nhưng qua 2.000 năm màu sắc cũng bị

phai đi nhiều. Những pho tượng này chúng ta có thể biết về trang phục, lịch sử, là

nguồn tư liệu về quân phục, trang bị và vũ khí của quân đội thời Tần.

3.4. Nghệ thuật văn học

có một kho tàng văn học cổ điển phong phú, bao gồm cả thơ và văn

xuôi, có niên đại từ thời nhà Đông Chu (770-256 BCE) và bao gồm các tác phẩm kinh điển

được cho là của Khổng Tử. Trong số các tác phẩm kinh điển nhất của văn học Trung

Quốc là Kinh Dịch, một cuốn sách dựa trên bát quái. Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một

hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển theo bởi các nhà triết học Trung

Hoa. Cho tới nay, Kinh dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa

cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Trung Hoa và được coi là một tinh hoa

của cổ học Trung hoa, nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như

thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh được dựa trên vị hoàng đế huyền thoại Phục Hy.

Đến thời Khổng Tử, bát quái đã được phát triển thành 64 quẻ. Kinh Thi (Shī Jīng) là một

trong năm quyển Ngũ Kinh tương truyền do Khổng Tử san định từ những câu ca dao

của nhân dân Trung Hoa thời Xuân Thu. Kinh Thi là một bộ sách gồm có những câu

ca dao rất cổ của Trung Hoa. Ngày xưa, Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần và ra

lệnh cho quan Thái sư hiến dâng ca dao để xem phong tục của dân. Chư hầu nhặt

những câu thi ca ấy để hiến lên Thiên tử, Thiên tử tiếp nhận và liệt vào nhạc quan, lấy

cái đó để xét phong tục tốt hay xấu, biết việc chính trị nên hư.Theo mấy lời dẫn trên

thì những bài ca dao trong Kinh Thi đã được sưu tập trước thời Khổng Tử. Nguyên

nhan đề là Thi chứ không có chữ Kinh. Người ta thêm chữ ấy vì cho rằng cho Kinh

Thi được Khổng Tử san định.Kinh Thư là một bộ phận trong bộ sách Ngũ Kinh của

Trung Quốc, ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước Khổng Tử.

Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các minh quân như

Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ. Lễ Ký một bản phục hồi của bản gốc

Kinh Lễ (tiếng Trung: Lǐ Jì) là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, ghi chép

các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong dùng làm phương tiện để duy trì

và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời"

(sách Luận Ngữ).

Trung Quốc



Biên niên sử Xuân Thu,



một tác phẩm ghi chép lịch sử của vua nước Lỗ từ năm 722

đến năm 479 trước Công nguyên. Xuân Thu (tiếng Trung Quốc: bính âm: Chūnqiū,

cũng được gọi là Lân Kinh) là bộ biên niên nước Lỗ viết về giai đoạn từ năm 722 TCN

tới năm 481 TCN. Đây là văn bản lịch sử Trung Quốc sớm nhất còn lại và được ghi

chép theo các quy tắc sử biên niên. Văn bản cực kỳ súc tích, và nếu chúng ta bỏ toàn

59



bộ những lời phê bình, nội dung sẽ dài khoảng 16 nghìn từ, vì thế chỉ có thể hiểu được

nghĩa của nó với sự hỗ trợ của những lời bình của các học giả thời xưa, đặc biệt theo

truyền thống Tả Truyện. Luận Ngữ Luận Ngữ là một sách mà do Khổng Tử và những đệ

tử của mình biên soạn. Luận Ngữ là một quyển sách trong bốn sách gọi là Tứ Thư.

Ngoài Luận Ngữ, Tứ Thư cũng gồm có Đại Học, Mạnh tử và Trung Dung. Luận Ngữ

được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán, và là một chủ đề học vấn chủ yếu trong thi

triều đình Trung Hoa Khoa bảng (hay là "Khoa Cử"). Luận Ngữ là sách sưu tập ghi

chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Sách

Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên không có

của Tôn Tử vào thế kỷ 6 trước Công nguyên đã đánh dấu một cột mốc trong các cẩm

nang nghệ thuật quân sự Trung Quốc cho muôn đời sau như Vũ Kinh Tổng Yếu (; 1044

sau Công nguyên) và Hỏa Long Kinh ((Hỏa Long Thần Khí Trận Pháp) giữa thế kỷ

14). Ngoài ra, có lẽ Binh Pháp hiện đang là sách cẩm nang cho quan hệ ngoại giao quốc

tế hiệu quả hàng đầu.



Câu hỏi:

1. Trình bày những nét độc đáo của hội họa Trung Quốc cổ đại

2. Phân tích thành tựu nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ cổ đại

60



3. Những yếu tố nào tác động đến sự phát triển của nghệ thuật văn học

Trung Quốc

4. Trình bày những nét điển hình nhất về văn học Trung Quốc thời cổ đại



61



CHƯƠNG IV: MỘT SỐ THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT CUỐI THẾ KỶ

XIX ĐẦU THẾ KỶ XX

Mở đầu

Thế kỷ XIX là giai đoạn bản nề cho sự phát triển nghệ thuật thế kỷ XX ở

phương Tây. Những tiến bộ khoa học, kỹ thuật đầu thế kỷ XX là thành quả của sự

sáng tạo nhiều thế kỷ trước, trong đó nghệ thuật nói chung, mỹ thuật nói riêng đã đạt

được nhiều điều mới, lạ, kỳ diệu, nó không chỉ phản ánh hiện thực mà còn phản ánh cả

những dự báo cho một tương lai mới của nghệ thuật

Chương 4 sẽ giúp sinh viên phần nào tiếp cận những thành tựu nghệ thuật

phương Tây thế kỷ XIX, XX cùng những xu hướng, trào lưu nghệ thuật điển hình và

cả những biến động của nghệ thuật đương đại thế kỷ mới .

Mục tiêu

- Giúp người đọc hiểu biết thêm về loại hình Hội họa.

- Có thêm những kiến thức, kỹ năng phân tích, đánh giá và nhận định về một số

hình thức nghệ thuật mới: Sắp đặt, trình diễn…và những thành tựu của nghệ thuật văn

chương trong thời kỳ Hiện đại

1. Nghệ thuật Hội họa

1.1. Nghệ thuật Ân tượng

1.1.1. Sự ra đời của xu hướng nghệ thuật ấn tượng.

Thế kỷ XIX ở Pháp thực sự là một thế kỷ cách mạng trong nghệ thuật tạo hình.

Trào lưu cách mạng thứ ba sau lãng mạn và hiện thực là nghệ thuật ấn tượng. Xu

hướng nghệ thuật này được khởi xướng từ khoảng những năm 60 của thế kỷ này, bắt

đầu từ sự kiện Manet. Ông là hoạ sĩ Pháp, với các bức tranh “Bữa ăn trên cỏ”, “Nàng

ôlimpia”… Về nội dung, đề tài tranh của ông không có gì lạ so với tranh của các hoạ sĩ

trước đó. Sở dĩ ông bị từ chối do cách thể hiện, vì ông đã từ bỏ lối diễn tả ánh sáng dịu

dàng chuyển sắc độ êm ả kiểu cổ điển trong phòng vẽ theo sự sắp xếp, bố trí của các

hoạ sĩ. ở đây ông sử dụng tương phản mạnh giữa ánh sáng và bóng tối. Vấn đề được

đặt ra ở đây là đòi hỏi phải có sự thay đổi trong cách nhìn, cách vẽ. Nếu trước đay các

hoạ sĩ được học trong các học viện mỹ thuật đã bắt đầu từ việc vẽ các phiên bản tượng

cổ Hy Lạp, diễn tả bóng rất tỉ mỉ để thể hiện khối tròn trịa, mềm mại. ánh sáng được

diễn tả bằng sự chuyển đổi dần từ sáng sang tối. Hình vững chãi, bố cục rành mạch.

Cách vẽ này đã chi phối nghệ thuật Châu Âu hằng mấy trăm năm nay. Mặc dù Ma nê

chưa từng bày tranh cùng nhóm ấn tượng, song ông vẫn được coi là tác nhân quan

trọng thu hút các hoạ sĩ trẻ muốn sự đổi thay trong nghệ thuật tạo hình. Ma nê là người

62



mở đầu có cùng quan niệm và kỹ thuật vẽ với các hoạ sĩ phái ấn tượng như: Mônê,

Pixarô, Rơnoa, Xêdan…

Năm 1873, tranh của các hoạ sĩ kể trên gửi triển lãm quốc gia Pháp không được

chấp nhận, ngày 15/4/1874 họ đã trưng bày những tác phẩm của mình ở 1 xưởng của

nhà nhiếp ảnh 35 phố Capuyxin với tên gọi “Ấn tượng mặt trời mọc”. Đây là triển lãm

đầu tiên của phái và gây tiếng vang lớn ở Paris. Các báo xúm lại chỉ trích, chế giễu.

Từ năm 1926 , tranh của xu hướng nghệ thuật ấn tượng bắt đầu được đánh giá

đúng mức. Những năm 50 của thế kỷ XX, tranh ấn tượng đã được đặt đúng chỗ của nó

trong lịch sử mỹ thuật thế giới. Công chúng Châu Âu đã hiểu và yêu thích tranh ấn

tượng. Xu hướng nghệ thuật ấn tượng thực sự là một cuộc cách mạng trong nghệ thuật

tạo hình. Nó là sự kết thúc của một quan niệm nghệ thuật, đồng thời là điểm bắt đầu

cho một thời kỳ mới trong lịch sử mỹ thuật thế giới: Thời kỳ nghệ thuật hội hoạ hiện

đại, mà ấn tượng là điểm khởi đầu.

1.1.2. Đặc điểm của nghệ thuật Ân tượng.

Trước ấn tượng, các xu hướng nghệ thuật rất coi trọng vấn đề đề tài trong tác

phẩm. Họ tranh luận với nhau xem vẽ cái gì mới là có giá trị. Suốt cả một thời gian

dài, các đề tài tôn giáo, thần thoại, quý tộc, lịch sử lên ngôi. Đề tài bình dân không

được coi trọng. Mãi đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa hiện thực mới thắng thế. Đến ấn

tượng, các hoạ sĩ lại cho rằng đề tài không quan trọng. Hiệu quả của ánh sáng và cảm

xúc của hoạ sĩ quan trọng hơn đề tài. Đề tài chỉ còn là cái cớ để vẽ tranh. Còn về cách

thể hiện thì sao? Các hoạ sĩ thời phục hưng đã trải qua bao nhiêu nghiên cứu tìm tòi

mới tìm được cách thể hiện hình tượng nhân vật giống như thực ở ngoài đời. Tranh

phục hưng đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật diễn tả chân thực. Nhưng ở thế kỷ XIX,

cùng lúc với phái ấn tượng có một phát minh mới cạnh tranh với hội hoạ đó là chiếc

máy ảnh và kỹ thuật chụp ảnh ra đời. Thế là máy ảnh nhảy vào một số lĩnh vực, phạm

vi của hội hoạ ví như lĩnh vực chân dung chẳng hạn. Đội hình đi đón hoàng hậu Pháp

đã từ chối tranh chân dung tập thể của họ đặt Rembrăng vẽ chỉ vì bức chân dung đó

giống như bức tranh sinh hoạt nhiều hơn đó sao? Đến nay không cần tốn thời gian, họ

có thể thực hiện được mong muốn lưu lại chân dung của đội mình cho hậu thế chỉ nhờ

chiếc máy ảnh. Đây cũng là sự thách thức đối với hội hoạ. Các hoạ sĩ nhận thấy phải

có sự thay đổi trong cách vẽ, cách xử lý các đề tài. Sự thay đổi đó máy và kỹ thuật

chụp có cao siêu cũng không vượt qua được. Máy ảnh không thể có khả năng tình

cảm, cảm xúc của con người. Quan niệm thay đổi, cách vẽ thay đổi. Các hoạ sĩ ấn

tượng đã đưa ra một loại tranh mới khác hoàn toàn các loại tranh “kinh viện” hay nhà

trường… có từ trước đến lúc đó. Trên loại tranh đó, mọi ranh giới của đường nét,

mảng khối, xa gần, bố cục.. bị xoá nhoà. Tất cả chỉ còn là những nét bút, vệt màu rực

63



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

×