Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.89 MB, 116 trang )
vòm uốn. Sức chứa của đấu trường lên tới 50.000 người. Đây là sự kết hợp các thể
thức kiến trúc của Hy Lạp. Tầng 1 là biến thể của thức Đôníc, tầng 2 là một cột theo
kiểu Iôníc, tầng 3 là kiểu thức Côranhtiêng, tầng 4 sử dụng mảng đặc là chính. Thỉnh
thoảng có chỗ cửa nhỏ, kết cấu theo kiểu nhẹ dần lên. Bên cạnh những hàng cột theo
kiểu Hy Lạp là các vòm cuốn bán nguyệt mang đặc trưng kiến trúc La mã. Sự kết hợp
đó đã tạo cho mặt ngoài đấu trường một dáng vẻ đặc biệt, phản ánh được một cách rõ
nét đặc điểm của nghệ thuật La mã.
Đấu trường Co-li-de
Khải hoàn môn: Thường được bố cục 3 cổng vòm. Nổi bật là cổng chính ở
giữa, hai bên là hai cổng nhỏ. Chúng thường có kích thước lớn, độ rộng và sử dụng
nhiều vòm, vòng cung, thường được xây bằng gạch, đá vôi, ngoài bọc bằng đá cẩm
thạch… Khải hoàn môn thường được xây dựng để tôn vinh và ghi lại chiến thắng của
các hoàng đế La mã. Vì vậy trang trí ở đây là phù điêu và chỉ phủ kín mặt ngoài kiến
trúc. Nó không mang giá trị vật chất cụ thể mà là biểu trưng cho các hoàng đế, khẳng
định quyền bá chủ dành cho người chiến thắng: Khải hoàn môn Trujan (114 – 129),
Titus, Séptimiút (203)…
Trong tất cả thể loại kiến trúc La mã, họ đều sử dụng vòm cuốn nhiều kiểu.
Người La mã tỏ ra có biệt tài trong việc xây dựng mái vòm với kỹ thuật điêu luyện, có
sự kết hợp của nhiều vật liệu: Gạch, đá… Họ xây dựng nhiều nhà tắm công cộng,
phong tranh, thư viện, … phục vụ cho nhu cầu của con người.
Cầu dẫn nước: Qua sông Gard, cao 49m, dài 274m, gồm 3 tầng móng, lớp dưới
có 6 cống vòm, lớp 2 có 11 cổng vòm, trên cùng là 35 cổng vòm, các cổng vòm này
không giống nhau. Cầu móng có độ nghiêng thích hợp để lúc nào cũng có nước chảy.
Được xây bằng gạch, đá để mộc. Điều này tạo vẻ đẹp cho tác phẩm nghệ thuật này. Do
tướng quân và thống đốc La mã Aguriba, bạn và anh em cọc chèo với hoàng đế
Augustua xây dựng.
17
Cầu dẫn nước
Kiến trúc La mã có nhiều đặc điểm khác hoàn toàn Hy Lạp. Nếu kiến trúc Hy
Lạp có vẻ đẹp đơn giản, bình dị với đường thẳng là chính thì kiến trúc La mã lại có vẻ
đẹp hùng vĩ, đồ sộ với những vòm cuốn, vòng cung nhiều loại: Trong nghệ thuật kiến
trúc, thể loại kiến trúc dân dụng phát triển nhất và đã để lại trên đất ý ngày nay nhiều
công trình danh tiếng, chứng tỏ tài năng về mặt kiến trúc của người La mã cổ đại.
3. Nghệ thuật Điêu khắc
3.1. Thể loại tượng tròn
Ở La mã tượng chân dung, mà nhất là chân dung các hoàng đế đặc biệt phát
triển. Thành tựu này khởi nguồn từ một tục lệ lâu đời của người La mã, tục lệ mang
tính tín ngưỡng, tôn giáo: Tục lệ thờ cúng tổ tiên, cha mẹ. Trong nhà người La mã cổ
có một chiếc tủ đựng chân dung bằng sáp của những người thân đã qua đời. Giống như
người Ai Cập cổ, họ tin rằng những chân dung hình ảnh đó có linh hồn. Họ cũng tin
rằng những con người đó vẫn tồn tại và hiện diện trong cuộc sống gia đình, tham gia
vào mọi sinh hoạt của những người còn sống. Khi có tang lễ, người ta khiêng cả chiếc
tủ đựng chân dung thờ đó đi theo đám tang. Lúc đầu người ta dùng sáp nóng đổ lên
mặt người hòng có sự chính xác và chân dung giống thực một cách tối đa. Sau này
họ tạo ra được các pho tượng, vẫn mang theo tinh thần trọng thực. Nhờ những
hiểu biết về cấu trúc và đặc điểm của đầu người qua việc đổ trực tiếp bằng sáp
nóng. Có thể nói tượng chân dung La mã mang tính tả thực cao độ và là tượng
mang tính đặc tả tính cách nhân vật. Tuy nhiên cũng không thể bỏ qua sự kết hợp
với tính chất lý tưởng hoá trong một số bức tượng chân dung của La mã cổ đại.
Tính chất đó có thể biểu hiện ở hình dáng, trang phục, hay các pho tượng nhỏ kèm
theo.
18
Tượng Hoàng đế Ô guýt ở Prima - Poóta 20 - 17: Nhà điêu khắc đã rất giỏi khi
thể hiện các nếp gấp mềm mại, buông rủ trên cánh tay trái của Ô guýt, tay phải Ô guýt
giơ cao, tay trái cầm cây gậy quyền lực dưới chân phải là biểu tượng tiểu thần tình yêu
cưỡi trên cá đô phin (cá heo). Đấy chính là nét lý tưởng hoá trong các pho tượng La
mã.
Tuy vậy dù dưới hình thức nào thì các pho tượng đó vẫn mang tính hiện thực.
Dưới các hình thức đó, các công dân La mã vẫn nhận ra những nét tính cách riêng
của các vị hoàng đế của mình. Bên cạnh các chân dung hoàng đế La mã vừa mang
tính hiện thực vừa mang tính lý tưởng hoá còn có một loại chân dung hoàn toàn
mang tính hiện thực một cách sâu sắc. Loại chân dung này mang đậm chất La mã
hơn. Chân dung kiểu này trong nghệ thuật điêu khắc Hy Lạp chưa thấy xuất hiện.
3.2. Thể loại chạm nổi
Nghệ thuật La mã mang tính chất tôn vinh ca ngợi các hoàng đế La mã, hoặc
họ được thần thánh che trở, hoặc họ là những bậc vĩ nhân. Trong những bức chạm
nổi mang tính chất lịch sử đó, với chủ đề xoay quanh chuyện thần thoại, mang tính
tập thể và khái quát chung, ở La mã lại là vai trò cá nhân tôn vinh cá nhân. Điều này
được thể hiện trong các trụ tưởng niệm, hay phù điêu trang trí ở bề mặt các khải hoàn
môn.
19
Một hình thức thứ hai sử dụng diện phù điêu trang trí nhiều là những cái quách
dùng trong các tang lễ. Hình thức này mang theo phong cách của từng xưởng sản xuất,
từng vùng trên đất La mã. Điều này cũng quy định sự khác nhau giữa các mảng phù
điêu. Có thể dùng nhiều hình tượng nhân vật, sắp đặt các hình tượng thưa hay dày thể
hiện những đoạn thần thoại, hay các vị thần, hoặc trang trí bằng các tràng hoa và nhiều
hình tượng khác rất phong phú.
20
BÀI 4: THÀNH TỰU NGHỆ THUẬT TRUNG CỔ
1. Hoàn cảnh xã hội thời Trung cổ phương tây
La mã từ chỗ là một quốc gia thống nhất, bị chia làm 2 phần: Đế quốc La mã
phương Tây và phương Đông. Chế độ phong kiến Tây Âu bắt đầu. Trong điều kiện
sống hạn chế về tầm nhìn, về sự giao lưu kinh tế, văn hoá… Châu Âu rơi vào tình trạng trì
trệ, tối tăm… Nền văn hoá phát triển rực rỡ vào thời kỳ cổ đại dần bị tàn lụi.
Từ thế kỷ XI, Châu Âu bắt đầu được phục hồi. Mọi mặt của đời sống xã hội đều
có sự đổi mới, chấm dứt sơ kỳ phong kiến bước vào thời kỳ trung kỳ phong kiến. Nổi
bật là sự ra đời của thành thị và sự thành lập các trường Đại học (TK XII - XIII) đã tạo
điều kiện cho một trào lưu văn hoá mới ra đời vào thế kỷ XV ở Ý. Đó là trào lưu văn
hoá phục hưng. Trung cổ nằm giữa giai đoạn cổ đại và phục hưng.
2. Thành tựu nghệ thuật thời Trung cổ
2..1 Nghệ thuật Kiến trúc Bi dăng tanh
Một phong cách nghệ thuật tồn tại trong giai đoạn này là Bi dăng xơ và thường
được gọi là nghệ thuật Bi dăng tanh. Kiến trúc Bidăngtanh vẫn tiếp tục phát triển theo
truyền thống La mã với các thể loại kiến trúc phong phú. Trong các công trình kiến
trúc đáng chú ý là nhà thờ thánh Xôphia (360 - 1354). Công trình này lớn nhất thế giới
thiên chúa giáo (thế kỷ XV). Nó được xây dựng là sự kết hợp giữa thể thức kiến trúc
mặt bằng chữ nhật của La mã vừa tạo được mặt bằng chữ thập Hy Lạp. Đặc biệt là
những nóc tròn, vòm cầu đồ sộ đã tạo nét riêng biệt với sáng tạo của nghệ thuật kiến
trúc Bidăngtanh. Đồng thời cũng đánh dấu sự tiến bộ của kỹ thuật xây cất kiến trúc
thời Bidăngtanh so với La mã thời cổ đại. Trên nóc tròn đồ sộ đó, các kiến trúc sư
Bidăngtanh còn cho dát bằng các kim loại quý như vàng… để tăng thêm phần sang
trọng cho “ngôi nhà của chúa”.
2.2. Nghệ thuật Kiến trúc Roman
Từ năm 63 TCN, ở La mã đã xuất hiện một tôn giáo mới đến thế kỷ IV TCN,
đạo Kitô đã được chính thức công nhận là đạo chính ở La mã, cũng như ở Châu Âu.
Đạo Kitô phát triển kéo theo việc xây dựng các nhà thờ Kitô giáo được chú trọng.
Điều này thoả mãn nhu cầu chung cho cả quý tộc và nông nô. Từ thế kỷ IX đến thế kỷ
XI một phong cách kiến trúc nhà thờ kitô giáo ra đời. Đó là phong cách kiến trúc Rô
măng. Nghệ thuật Rô măng không phải là sự tiếp tục phát triển của nghệ thuật La mã.
Tuy vậy tên gọi Rô măng cũng gợi về sự vang vọng của một nền nghệ thuật đã từng
rực rỡ ở thời cổ đại.
Nhìn bề ngoài, kiến trúc Rômăng là một khối nhà thấp, chắc chắn, nhiều mảng
lớn hơn các khoảng trống. Vật liệu chủ yếu bằng đá. Thời kỳ này đã biết tạo ra các cột,
21
mỗi hàng là một gian với vòm bán nguyệt trên mi cửa. Lối kiến trúc này có ưu điểm là
khoẻ khoắn, chắc chắn. Nhưng do cửa sổ nhỏ và ít nên trong lòng kiến trúc thiếu sáng.
2. 3. Nghệ thuật Kiến trúc Gotich
Đến thế kỷ XII, ở Pháp xuất hiện một phong cách kiến trúc mới: phong cách
Gôtích (Gothique), đã tìm cách giải quyết những hạn chế kiến trúc Rômăng bằng một
số kỹ thuật mới như tạo những hàng cột bên vững chãi, là bộ cung kép để đỡ mái bên.
Để nâng cao vòm nhà, kiến trúc sư Gotích đã tạo ra hệ thống vòng cung gãy, khởi từ
những đầu cột chính, cắt nhau tại trung tâm của vòm nhà. Điểm đặc trưng để phân biệt
kiến trúc Gôtích với Rômăng là các vòm nhọn, các mi cửa không còn là cung tròn mà
là một nửa hình thoi. Sau này Gotích có thay đổi là các cung nhọn thì bây giờ là hai
cánh cung nối nhau ở đỉnh nhọn. Hình này là sự phối hợp hai thể thức Rômăng và
Gôtích. Nó vừa giải quyết được vấn đề chiều cao cho công trình, vừa giải quyết được
phần tạo dáng cho các vòm, vòng cung đẹp hơn, mềm mại hơn. Với cách xử lý kỹ
thuật mới, các nhà thờ Gôtích vươn cao trên bầu trời. Đồng thời ánh sáng vẫn chan hoà
trong lòng thánh đường, tạo một không gian kiến trúc tôn giáo phù hợp.
3. Nghệ thuật Hội họa
Ứng với mỗi phong cách kiến trúc lại có những thể loại tranh phù hợp. Với
phong cách Rômăng khi nghệ thuật mới được phục hồi trở lại sau một thời gian hạn
chế và tàn lụi thể loại tranh được phát triển là tranh khuôn khổ nhỏ, làm chức năng
minh hoạ cho các sách thánh kinh, hay còn gọi là các bức tiểu hoạ. Thể loại này có
màu sắc đơn giản. Ngôn ngữ đặc trưng là nét, bố cục đơn giản, xúc tích và dễ hiểu
đồng thời bộ lộ nội dung sâu sắc. Vì làm chức năng minh hoạ nên nội dung chính của
thể loại tranh này là nội dung tôn giáo.
Trong kiến trúc Gôtích, các nhà thờ có nhiều khoảng trống, phù hợp với thể loại
tranh ghép kính màu. Bằng nhiều lớp kính màu, thể loại tranh này đã tạo hiệu quả
trang trí cao. Khi ánh sáng mặt trời chiếu qua các lớp kính tạo ra một lớp ánh sáng
huyền ảo, gợi không khí huyền bí linh thiêng trong nhà thờ. Tranh ghép kính màu
ngày càng phát triển với nhiều kỹ thuật đa dạng hơn. Cùng với tranh ghép kính màu,
trong thời kỳ Gôtích còn thể loại tranh thờ, tranh thánh. Những tranh này phần lớn
được dùng trong trang trí, thờ phụng ở bàn thờ chúa. Đề tài chính là tranh vẽ các vị
thánh, chúa. Có thể có tranh đơn, nhưng cũng có thể bày nhiều bức tranh đơn ghép lại
thành bức thánh tượng bình (bức bình phong về tranh thánh) bày ngay trước bàn thờ
chúa, ở nghệ thuật Bidăngtanh, tranh ghép bằng các mảnh gốm màu hoặc các mảng đá
phát triển hơn cả.
Trong các thể loại tranh kể trên, hầu hết là mang nội dung trích ra từ kinh thánh.
Hình ảnh Chúa Trời đức mẹ và chúa hài đồng, các thánh được diễn tả bằng một quan
22